Tiểu sử của nhà thơ Tú Xương hay Trần Tế Xương
Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Kim Bính Uyên tức Kim Sat Kat
Kim Sat Kat 김병연 (1807-1863) tên chữ Hán là Kim Bính Uyên 金炳淵 còn có tên khác là Kim Rip 김립 (金笠 -Kim Lạp), tự là Tính Thâm 性深, hiệu là Lan Cao 蘭皐.Ông là nhà thơ lưu lạc và phóng túng nổi tiếng của Hàn Quốc dưới thời Joseon. Thơ ông miêu tả cuộc sống phiêu bạt, bày tỏ tâm trạng bất bình, đồng thời phản ánh nhân tình thế thái. Phong cách thơ ông độc đáo, sâu cay và hài hước.Sự gặp gỡ trong thi ca
Xã hội Việt Nam thời Tú Xương là xã hội đang trong buổi giao thời từ một xã hội phong kiến suy tàn chuyển sang xã hội thực dân nửa phong kiến. Thi ca của Tú Xương là những nét ký hoạ mang đậm tính chân thực và làm nổi bật lên được sự chuyển hoá của xã hội ông đang sống. Trong thơ ông, có hình bóng những con người và sinh hoạt của xã hội phong kiến suy tàn, đồng thời, cũng có cả hình bóng và sinh hoạt của những con người là sản phẩm của xã hội thực dân đem lại.
Chữ "y" chữ "chiểu" không phê đến,
Ông chỉ quen phê một chữ "tiền"!
Tú Xương
Đọc sách một quyển lại đỗ a?
Té ra nghìn quyển chẳng bằng tiền!
Kim Sat Kat
Thế sự đua nhau nói dại khôn,
Biết ai là dại biết ai khôn.
Khôn nghề cờ bạc là khôn dại,
Dại chốn văn chương ấy dại khôn.
Mấy kẻ nên khôn đều có dại,
Làm người có dại mới nên khôn,
Cái khôn ai cũng khôn là thế,
Mới biết trần gian kẻ dại khôn.
Tú Xương
Thị thị phi phi phi thị thị,
Thị phi phi thị phi phi thị.
Thị phi phi thị thị phi phi,
Thị thị phi phi thị thị phi.
(Đúng đúng sai sai sai đúng đúng,
Đúng sai sai đúng sai sai đúng.
Đúng sai sai đúng đúng sai sai,
Đúng đúng sai sai đúng đúng sai.)
Kim Sat Kat
Tâm trạng bất khả tri (không thể biết) đã được hai tác giả diễn tả thành thơ cho thấy thế sự đương thời đổi trắng thay đen chỉ trong nháy mắt. Sự tài tình trong sử dụng ngôn ngữ đã tăng thêm phần phê phán xã hội, châm biếm thói đời bạc bẽo.
2. Tự trào lộng - cái tôi đặc biệt của hai tác giả
Sự đời đen bạc, cuộc sống đảo điên và phận rủi đeo đẳng hai nhà thơ suốt cuộc đời chính là chất liệu đặc biệt tạo ra một nét đặc biệt trong những vần thơ tự trào lộng, thể hiện cái tôi rất điển hình của hai tác giả.
Tế đổi thành Cao mà chó thế,
Kiện trông ra Tiệp hỡi trời ơi!
“Ba nghìn dặm lang thang phiêu bạt,
Bốn mươi năm đèn sách quẳng đi”.
Và cuối cùng, ở câu kết, ông than dài chua xót:
“Trên đời này, ai hiểu được ta?”
(Kim Sat Kat)
“Một việc văn chương thôi cũng nhảm,
Trăm năm thân thế có ra gì”.
(Tú Xương)
“Nón lá bồng bềnh tựa thuyền không,
Cuộc đời thoáng chốc bốn mươi thâu (thu).
Mục đồng áo mỏng theo trâu miết,
Ngư ông vốn thích bạn hải âu”.
“Say đi cho hết vấn vương đời,
Cao hứng lên lầu ngắm trăng chơi.
Tục tử bề ngoài khoe mũ áo,
Ta chẳng sầu mưa gió đầy trời”.
(Kim Sat Kat)
Trong bài phú Thầy đồ dạy học, Tú Xương cũng tự nói về ông:
“Con người phong nhã,
Ở chốn thị thành.
Râu rậm bằng chổi,
Đầu to tày giành.
Cũng lắm phen đi đó đi đây, thất điên bát đảo,
Cũng nhiều lúc chơi liều chơi lĩnh, tứ đốm tam khoanh.
Nhà lính tính quan; ăn rặt những thịt quay, lạp xường,
Mặc rặt những quần vân áo xuyến...”
Đây đúng là điểm giống nhau khá đặc biệt của hai nhà thơ nghèo mang nỗi hận đời, hận mình lại viết về cái tôi với nghĩa cụ thể đặc biệt như vậy!
3. Trữ tình và trào phúng - nét đặc sắc trong thơ của hai tác giả
Trong số những vần thơ mà hai tác giả để lại, ta thấy rõ có hai loại là trữ tình và trào phúng. Công bằng mà nói, nét trữ tình trong thơ của hai ông cũng đặc sắc không kém gì so với một nhà thơ nào đương thời.
Chẳng hạn như một số bài: Thương vợ, Chợt giấc, Đêm hè, Đêm dài... (Tú Xương); Khai thành, Bách tường lâu, Phiêu Nhiên Đình, Lần thứ hai qua Hoài Dương... (Kim Sat Kat) đều được thừa nhận là những bài thơ hay, gây được ấn tượng về mặt cảm xúc, nhưng có điều, cũng như mọi người vẫn thừa nhận, thành tựu chính của hai nhà thơ chủ yếu ở lĩnh vực trào phúng, bởi vậy mà lĩnh vực trữ tình bị mờ nhạt đi.
Nghệ thuật trào phúng của hai tác giả đã được nhiều thế hệ người Việt Nam và Hàn Quốc cũng như các nhà nghiên cứu chuyên sâu đánh giá là đạt đến đỉnh cao. Một tài thơ thiên bẩm cộng với cảm xúc nhạy bén của một tâm hồn, một con tim có chiều sâu lại gặp cảnh trớ trêu của cuộc đời đã tạo ra những vần thơ mang nét đặc sắc riêng biệt của hai tác giả.
Những câu thơ trào phúng hay nhất về cái nghèo, thi hỏng hoặc không được dự thi, châm biếm bọn quan lại, quý tộc kệch cỡm, dốt nát, đả kích những con người xấu, thói hư tật xấu của xã hội... thì nhân dân hai nước đều kể đến tên hai nhà thơ Tú Xương và Kim Sat Kat.
Thơ trào phúng của Tú Xương thường dùng thể thơ Đường luật nhưng ngôn từ trong câu là của người Việt. Hoặc nói cách khác, đây là thơ Nôm theo thể Đường luật. Chính vì sử dụng chữ Nôm, sử dụng ngôn từ Việt mà nhiều từ ngữ mang yếu tố hài hước, châm biếm đã được nhà thơ khéo léo xếp đặt đã tạo ra một phong cách riêng của Tú Xương. Nói một cách hơi khác đi một chút, một sự phá cách trong sử dụng ngôn ngữ đã xuất hiện rõ nét từ Tú Xương. Những từ ngữ dân dã, thông tục, thậm chí tục tĩu cũng được sử dụng rất tài tình khiến cho tính châm biếm, hài hước đạt đến trình độ cảm xúc cao.
Thơ trào phúng của Kim Sat Kat cũng có nhiều nét tương tự như vậy. Thơ chữ Hán của Kim Sat Kat cho thấy tính chất tượng trưng của sự biến đổi văn học chữ Hán thời kỳ này(3). Đó là thời kỳ thơ trào phúng ở Hàn Quốc đã sử dụng xen lẫn chữ Hàn với chữ Hán trong một câu thơ, những ngôn từ dân gian chỉ các đối tượng xuất hiện trong đời sống thường nhật như con muỗi, con nhện, con rận, con chuột... cũng được đưa vào thơ một cách tự nhiên. Thơ trào phúng của Kim Sat Kat được coi là đại biểu và sự phá cách trong thơ của ông được đánh giá rất cao.
Đây có thể coi là sự gặp gỡ thú vị trong nghệ thuật làm thơ trào phúng của hai nhà thơ xuất sắc.
Đọc thơ của hai ông, chúng tôi còn thấy một số điểm gặp gỡ nữa giữa hai nhà thơ, ví dụ như sự cảm thông với những người nghèo cùng cảnh ngộ, châm biếm mỉa mai các ông nghè ông cống dốt nát, phê phán đạo Nho suy đồi, phê phán những thói xấu, kệch cỡm của những con người mới phất lên nhờ buôn bán hoặc theo Tây...
III. Lời kết
Có thể khẳng định rằng Tú Xương và Kim Sat Kat không hẹn mà nên, thi ca của hai ông có nhiều điểm gặp nhau và đều được đánh giá cao trong lịch sử văn học hai nước thời cận đại, được đông đảo công chúng yêu mến và tiếp nhận. Hơn nữa, nghệ thuật sáng tác thơ có tính chất trào phúng của hai ông đã có sức ảnh hưởng rõ rệt đối với đời sau.
Noi theo Tú Xương, ở Việt Nam, nhiều nhà thơ đã sáng tác thơ ca trào phúng, đặc biệt là ở thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ. Ngày nay, kinh nghiệm sáng tác của Tú Xương càng cần được học hỏi để sáng tác những bài thơ mới nhằm phê phán những thói hư tật xấu trong xã hội kinh tế thị trường. Noi theo Kim Sat Kat, nhiều nhà thơ Hàn Quốc đã học tập lối làm thơ trào phúng của ông, sử dụng nhiều chữ Hán trong thơ thất ngôn rồi dần phát triển lên lấy vần Ga Na Đa của chữ cái Hàn để hiệp vận, đặc biệt là ở thời kỳ chống Nhật, đã hình thành một dòng thơ đả kích Nhật, phê phán bọn tay sai thân Nhật...
Chú thích:
(1) Xem Nguyễn Lộc: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, Nxb. ĐH và THCN, 1976, tr.306.
(2) Lạp: có nghĩa là nón lá.
(3) Văn học sử Hàn Quốc, từ cổ đại đến cuối thế kỷ XIX, Lý Xuân Chung và Jeon Hye Kyung dịch; Nxb. ĐHQG Hà Nội, 2006, tr.300.
Tài liệu tham khảo
1.Kim Đông Huc: Quốc văn học sử; Nxb. Nhật Tân, Seoul 1997.
2.Vi Húc Thăng: Triều Tiên văn học sử; Nxb. Đại học Bắc Kinh, 1985.
3.Hàn Quốc văn học sử, Lý Xuân Chung và Jeon Hye Kyung dịch; Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2006.
4.Nguyễn Lộc: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX; Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H. 1976.
5.Từ điển văn học Việt Nam từ Nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX; Lại Nguyên Ân biên soạn với sự cộng tác của Bùi Văn Trọng Cường; Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
Sưu tầm