Bài viết này khám phá những điểm gặp gỡ thú vị trong cuộc đời và sự nghiệp thi ca của hai nhà thơ trào phúng nổi tiếng: Tú Xương (Trần Tế Xương) của Việt Nam và Kim Sat Kat (Kim Bính Uyên) của Hàn Quốc. Dù sống ở hai quốc gia khác nhau và trong những bối cảnh lịch sử riêng biệt, thơ ca của họ lại có nhiều nét tương đồng đáng kinh ngạc.
Tiểu Sử Nhà Thơ Tú Xương (Trần Tế Xương)
Nguồn Gốc và Học Vấn
Tú Xương (tên thật là Trần Tế Xương, 1870-1907) sinh tại làng Vị Xuyên, Nam Định. Ông theo học chữ Nho từ nhỏ và sớm nổi tiếng thông minh.
Sự Nghiệp Thi Cử Lận Đận
Dù tài năng, con đường khoa cử của Tú Xương lại vô cùng lận đận. Ông bắt đầu đi thi Hương từ năm 15 tuổi nhưng liên tục trượt. Mãi đến khoa Giáp Ngọ (1894), ông mới đỗ Tú tài - một học vị không đủ để làm quan mà chỉ có thể mở lớp dạy học. Ông tiếp tục đi thi vào các năm 1897, 1900, 1903, 1906 với hy vọng đỗ Cử nhân nhưng đều thất bại. Ông qua đời đột ngột vào năm 1907 do bạo bệnh.
Gia Đình và Cuộc Sống
Tú Xương lấy vợ sớm, bà Phạm Thị Mẫn, một người phụ nữ tần tảo, buôn bán quanh năm để nuôi chồng ăn học và năm người con. Cuộc sống nghèo túng, thi cử hỏng, cộng thêm nỗi bất mãn với thời cuộc rối ren đã ảnh hưởng sâu sắc đến tâm hồn nhà thơ.
Nguồn Cảm Hứng Thơ Ca
Chính cuộc sống khó khăn, nỗi thất vọng cá nhân và sự đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho những vần thơ trào phúng, châm biếm sắc sảo, chua chát nhưng cũng đầy trữ tình của ông. Thơ Tú Xương thường được sáng tác tức thời, đọc cho bạn bè, người dân nghe nên bị thất lạc khá nhiều.
Cuộc Đời và Sự Nghiệp Nhà Thơ Kim Sat Kat (Kim Bính Uyên)
Xuất Thân và Biến Cố Gia Đình
Kim Sat Kat (tên thật là Kim Bính Uyên 金炳淵, 1807-1863), còn có tên Kim Rip (Kim Lạp 金笠), tự Tính Thâm, hiệu Lan Cao, là nhà thơ nổi tiếng thời Joseon ở Hàn Quốc. Xuất thân từ dòng dõi quý tộc Yangban, nhưng gia đình ông gặp họa "tru di tam tộc" do ông nội bị kết tội phản nghịch. Kim Sat Kat lúc đó mới 6 tuổi, may mắn được cứu thoát.
Ước Mơ Dang Dở và Cuộc Đời Phiêu Bạt
Thông minh, hiếu học, Kim Sat Kat nuôi ước mơ thi đỗ làm quan. Tuy nhiên, do lý lịch gia đình, ông không được phép dự thi. Ước mơ tan vỡ, nhận ra sự bất công của xã hội, ông chán nản, bỏ đi phiêu bạt khắp đất nước. Ông đội nón lá (nên có tên Kim Lạp - Kim Nón Lá) trong suốt hành trình của mình.
Phong Cách Thơ Ca Độc Đáo
Trong cuộc đời lang thang, Kim Sat Kat sáng tác rất nhiều thơ ca. Thơ ông thể hiện nỗi phẫn uất, sự mỉa mai đối với thời cuộc, châm biếm thói hư tật xấu của xã hội phong kiến Joseon mạt vận, đồng thời đồng cảm với người nghèo khổ. Giống như Tú Xương, thơ ông chủ yếu được lưu truyền trong dân gian qua trí nhớ của người nghe và được sưu tập, xuất bản rất lâu sau khi ông mất.
Sự Gặp Gỡ Kỳ Thú Trong Thi Ca Tú Xương và Kim Sat Kat
Hoàn Cảnh Trớ Trêu và Nguồn Cảm Hứng Chung
Cả Tú Xương và Kim Sat Kat đều là những tài năng nhưng gặp phải sự trớ trêu của số phận. Kim Sat Kat mất hoàn toàn cơ hội thi thố do biến cố gia đình. Tú Xương được đi thi nhưng lại liên tục thất bại trong một trường thi nhiễu nhương, quy định ngặt nghèo thời thực dân nửa phong kiến. Chính nghịch cảnh này đã tạo nên điểm chung lớn nhất trong thơ họ: khuynh hướng trào phúng, châm biếm sâu sắc. Họ làm thơ không phải để lưu danh mà để bày tỏ nỗi lòng, đọc cho dân chúng nghe, phản ánh hiện thực xã hội.
Phản Ánh Chân Thực Xã Hội Đương Thời
Thơ của hai nhà thơ là bức tranh sống động về xã hội đương thời của họ:
- Tú Xương: Phản ánh xã hội Việt Nam buổi giao thời Pháp thuộc với sự suy tàn của chế độ phong kiến và sự du nhập của văn hóa phương Tây. Ông khắc họa chân thực hình ảnh quan lại tham ô, sĩ tử rởm, me Tây, ông Tây, cùng những sinh hoạt mới như cao lâu, cà phê, thuốc lá...
- Kim Sat Kat: Phản ánh xã hội Joseon cuối triều đại với mâu thuẫn giữa bảo thủ và canh tân, ảnh hưởng của khởi nghĩa nông dân, nạn tham nhũng, đời sống dân chúng khốn cùng, sự đảo lộn các giá trị.
Cả hai ông đều dùng ngòi bút sắc sảo để phê phán thói hư tật xấu, đặc biệt là nạn tham quan ô lại:
Chữ "y" chữ "chiểu" không phê đến, Ông chỉ quen phê một chữ "tiền"! (Tú Xương)
Đọc sách một quyển lại đỗ a? Té ra nghìn quyển chẳng bằng tiền! (Kim Sat Kat)
Họ cùng châm biếm sự đảo điên, đúng sai lẫn lộn của xã hội:
Thế sự đua nhau nói dại khôn, Biết ai là dại biết ai khôn. ... Mới biết trần gian kẻ dại khôn. (Tú Xương)
Thị thị phi phi phi thị thị, Thị phi phi thị phi phi thị. Thị phi phi thị thị phi phi, Thị thị phi phi thị thị phi.
(Đúng đúng sai sai sai đúng đúng, Đúng sai sai đúng sai sai đúng. Đúng sai sai đúng đúng sai sai, Đúng đúng sai sai đúng đúng sai.) (Kim Sat Kat)
Tự Trào Lộng - Cái Tôi Độc Đáo
Một điểm đặc biệt nữa là giọng thơ tự trào, thể hiện "cái tôi" rất riêng của hai tác giả. Họ tự cười nhạo hoàn cảnh, số phận hẩm hiu của mình:
- Tú Xương: Chua chát về chuyện thi cử (đổi tên Tế thành Cao vẫn trượt), về cái nghèo, cái ngông của mình giữa chốn thị thành.
- Kim Sat Kat: Than thở về cuộc đời phiêu bạt ("Ba nghìn dặm lang thang"), về nỗi cô đơn không ai thấu hiểu ("Trên đời này, ai hiểu được ta?"), tự ví mình với hình ảnh chiếc nón lá phiêu bồng.
Cả hai đều mang nỗi hận đời, hận mình vì tài năng không được dụng:
Một việc văn chương thôi cũng nhảm, Trăm năm thân thế có ra gì. (Tú Xương)
Ba nghìn dặm lang thang phiêu bạt, Bốn mươi năm đèn sách quẳng đi... Trên đời này, ai hiểu được ta? (Kim Sat Kat)
Trữ Tình và Trào Phúng - Nét Đặc Sắc Song Hành
Tuy nổi tiếng nhất với thơ trào phúng, cả Tú Xương và Kim Sat Kat đều có những bài thơ trữ tình đặc sắc, thể hiện những cảm xúc sâu lắng (như Thương vợ, Đêm hè của Tú Xương; Khai thành, Phiêu Nhiên Đình của Kim Sat Kat). Tuy nhiên, chính nghệ thuật trào phúng mới là đỉnh cao và làm nên tên tuổi của họ.
Phong cách trào phúng của hai ông cũng có nét tương đồng:
- Tú Xương: Sử dụng thể thơ Đường luật nhưng với ngôn ngữ Nôm gần gũi, dân dã, thậm chí thông tục, tạo nên sự hài hước, châm biếm độc đáo. Ông được xem là người có sự phá cách trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam.
- Kim Sat Kat: Thơ ông (chủ yếu bằng chữ Hán) cũng thể hiện sự biến đổi của văn học chữ Hán Hàn Quốc thời kỳ này, với việc xen lẫn chữ Hán và chữ Hàn (Hanja và Hangeul), đưa ngôn ngữ dân gian, hình ảnh đời thường (con muỗi, con rận) vào thơ. Ông cũng được coi là người phá cách và đại diện tiêu biểu cho thơ trào phúng Hàn Quốc.
Những Điểm Tương Đồng Khác
Ngoài ra, thơ hai ông còn gặp nhau ở sự đồng cảm với người nghèo, châm biếm giới nho sĩ rởm, phê phán đạo Nho suy đồi và các thói xấu trong xã hội.
Lời Kết: Di Sản Vượt Thời Gian
Tú Xương và Kim Sat Kat, dù chưa từng gặp gỡ, lại có sự tương đồng đáng kinh ngạc trong cuộc đời và thi ca. Họ đều là những nhà thơ lớn, có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học cận đại của Việt Nam và Hàn Quốc.
Thơ trào phúng của hai ông không chỉ phản ánh sâu sắc xã hội đương thời mà còn có sức sống lâu bền, được công chúng yêu mến qua nhiều thế hệ. Nghệ thuật sáng tác độc đáo, đặc biệt là phong cách trào phúng, đã ảnh hưởng rõ rệt đến các nhà thơ đời sau ở cả hai nước, trở thành nguồn cảm hứng cho các sáng tác phê phán xã hội cho đến tận ngày nay.
Tài liệu tham khảo
- Kim Đông Huc: Quốc văn học sử; Nxb. Nhật Tân, Seoul 1997.
- Vi Húc Thăng: Triều Tiên văn học sử; Nxb. Đại học Bắc Kinh, 1985.
- Hàn Quốc văn học sử, Lý Xuân Chung và Jeon Hye Kyung dịch; Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2006.
- Nguyễn Lộc: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX; Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H. 1976.
- Từ điển văn học Việt Nam từ Nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX; Lại Nguyên Ân biên soạn với sự cộng tác của Bùi Văn Trọng Cường; Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Lộc: Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, Nxb. ĐH và THCN, 1976, tr.306. (Chú thích 1 trong bài gốc)
- Văn học sử Hàn Quốc, từ cổ đại đến cuối thế kỷ XIX, Lý Xuân Chung và Jeon Hye Kyung dịch; Nxb. ĐHQG Hà Nội, 2006, tr.300. (Chú thích 3 trong bài gốc)
Sưu tầm